SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO CÁC ƠN GỌI 2012

29.04.2012 – Chúa Nhật IV Phục Sinh

Chủ đề : Các ơn gọi, ân huệ của Tình Yêu của Thiên Chúa

Anh chị em thân mến,

Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho các Ơn Gọi lần thứ 49, sẽ được cử hành vào ngày 29.04.2012, nhằm Chúa Nhật IV Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy nghĩ về chủ đề: Các ơn gọi, ân huệ của Tình Yêu của Thiên Chúa.

Nguồn mạch của mọi ân huệ tuyệt hảo là Thiên Chúa Tình Yêu – Deus caritas est – : “ ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên ở lại trong người đó” (1 Ga 4, 16). Thánh Kinh tường thuật câu chuyện về mối liên hệ nguyên thủy này giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà đi trước cả việc tạo dựng. Viết cho các tín hữu của thành Êphêsô, thánh Phaolô đã dâng lên Chúa Cha một bài thánh thi biết ơn và ngợi khen, Đấng mà, với lòng nhân từ vô tận, đã thể hiện, qua bao thế kỷ, kế hoạch cứu độ phổ quát của Ngài là kế hoạch tình yêu. Thánh Tông đồ khẳng định : trong Con của Ngài là Chúa Giêsu, Ngài « đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người» (Êph 1, 4). Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương ngay cả « trước khi » chúng ta hiện hữu ! Được thúc đẩy chỉ bởi tình yêu vô điều kiện của Ngài, Ngài « đã tạo dựng chúng ta từ hư không » (x. 2 Mcb 7, 28) để dẫn  chúng ta đến hiệp thông trọn vẹn với Ngài.

Thán phục trước công trình của Thiên Chúa Quan Phòng, tác giả thánh vịnh đã thốt lên : « Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?» (Tv 8, 4-5). Như thế, chân lý sâu xa của cuộc sống của chúng ta được chứa đựng trong mầu nhiệm kinh ngạc này : mỗi thụ tạo, cách riêng mỗi nhân vị, là hoa trái của một tư tưởng và của một hành vi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu bao la, trung tín, vĩnh cửu (x. Gr 31, 3). Khám phá thực tại này thực sự thay đổi cuộc sống của chúng ta cách sâu xa. Trong một trang nổi tiếng của cuốn Tự Thuật, thánh Augustinô đã mạnh mẽ diễn tả việc ngài khám phá ra Thiên Chúa, vẻ đẹp tuyệt đỉnh và là tình yêu vô tận, một Thiên Chúa đã luôn luôn gần gũi với ngài, Đấng mà, cuối cùng, ngài đã mở rộng tâm trí và tâm hồn của mình để được biến đổi : « Con đã yêu Chúa rất muộn màng, ôi nguồn đẹp vô cùng thiết ái, cũ vô cùng mới mãi ngàn thu , con đã yêu Chúa rất muộn màng ! Này Chúa đã ở trong con, thế mà con cứ ở ngoài. Con đã tìm Chúa ở bên ngoài. Con thật vô duyên xấu xa khi mải chạy theo vẻ đẹp của các thụ tạo của Chúa. Chúa đã từng ở với con, thế mà con chẳng ở với Chúa. Các sự vật vẫn giữ con xa Chúa, chúng sẽ không  hiện hữu được nếu chúng không ở trong Chúa. Chúa đã gọi con, Chúa đã thét lên, Chúa đã bẻ gãy sự câm điếc của con. Chúa rực sáng, và ánh rạng ngời của Chúa đã cất đi sự mù lòa của con ; Chúa đã tỏa hương thơm của Chúa, con đã hít vào, đã thở, con đã nếm thử Chúa, và con đã đói khát Chúa ; Chúa đã chạm đến con và còn đã nóng lòng ước mong bình an của Chúa » (X, 27.38). Bằng những hình ảnh này, thánh Giám Mục ở Hippone tìm cách mô tả mầu nhiệm khôn dò của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, với tình yêu biến đổi toàn thể cuộc sống của Ngài.

Đó một tình yêu vô hạn đi trước chúng ta, nâng đỡ chúng ta và kêu gọi chúng ta trên suốt con đường của cuộc sống và được bén rễ trong sự nhưng không hoàn toàn của Thiên Chúa. Đặc biệt, khi quy chiếu đến thừa tác vụ linh mục, vị tiền nhiệm của tôi là Chân Phước Gioan-Phaolô II đã khẳng định rằng « bất cứ hành vi thừa tác nào, khi dẫn đến việc yêu mến và phục vụ Giáo Hội, cũng thúc đẩy luôn càng chín muồi hơn trong tình yêu và trong việc phục vụ Đức Kitô là Đầu, Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội; tình yêu ấy luôn luôn được coi là sự đáp trả lại tình yêu đi trước, tự do và nhưng không của Thiên Chúa trong Đức Kitô » (Tông huấn Pastores dabo vobis, số 25). Quả thể, mỗi ơn gọi riêng biệt đều  nảy sinh từ sáng kiến của Thiên Chúa, là ân huệ của tình yêu của Thiên Chúa ! Chính Ngài đi « bước đầu tiên », không phải do một sự tốt lành đặc biệt nào đó nơi chúng ta, nhưng nhờ sự hiện diện của tình yêu của Ngài « được Thánh Thần đổ tràn trong tâm hồn chúng ta » (Rm 5, 5).

Trong mọi lúc, ở nguồn mạch của tiếng gọi thần linh, luôn có sáng kiến tình yêu vô tận của Thiên Chúa, được biểu lộ trọn vẹn trong Chúa Giêsu-Kitô. Như tôi đã viết trong Thông điệp đầu tiên của tôi « Deus caritas est » : « Trên thực tế, Thiên Chúa trở nên hữu hình bằng nhiều cách thức. Trong lịch sử tình yêu mà Thánh Kinh kể cho chúng ta, Ngài đến gặp gỡ chúng ta, Ngài tìm cách chinh phục chúng ta – cho đến Bữa Tiệc Ly, cho đến độ Trái Tim bị đâm thâu trên thập giá, cho đến những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh và cho đến những kỳ công mà qua đó, xuyên qua hoạt động của các Tông đồ, Ngài đã dẫn dắt con đường của Giáo Hội sơ khai. Và cũng thế, tiếp sau đó, trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa đã không bao giờ vắng mặt : Ngài luôn đến gặp gỡ chúng ta – nơi những con người mà qua họ Ngài tỏ hiện, cũng như qua Lời của Ngài, trong các Bí tích, đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể » (số 17).

Tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn mãi tồn tại, Ngài trung tín với chính mình, với « lời đã cam kết cho muôn ngàn thế hệ » (Tv 105 (104), 8). Vì thế, cần phải tái loan báo, cách đặc biệt cho các thế hệ mới, vẻ đẹp lôi cuốn của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đi trước và đồng hành : tình yêu này là sức mạnh sâu kín, là động cơ không bao giờ thiếu, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Anh chị em thân mến, chúng ta phải mở cuộc sống chúng ta ra cho tình yêu này, và chính sự hoàn thiện này của tình yêu của Chúa Cha (x. Mt 5, 48) mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mỗi ngày! Quả thế, mức độ cao của cuộc sống của người kitô hữu hệ tại yêu thương “như” Thiên Chúa; đó là một tình yêu được biểu lộ trong sự tự hiến hoàn toàn, trung tín và phong nhiêu. Trả lời cho Mẹ bề trên của đan viện Ségovie, đang khổ tâm do hoàn cảnh bi thảm đan viện bị vạ trong những năm qua, thánh Gioan Thánh Giá đã mời gọi Mẹ hành động theo kế hoạch của Thiên Chúa: “ Đừng nghĩ đến gì khác ngoài việc mọi sự được Thiên Chúa an bài; và ở đâu không có tình yêu, Mẹ hãy đặt tình yêu vào đó và Mẹ sẽ gặt hái được tình yêu” (Thư, 26).

Chính trên mảnh đất dâng hiến mở ra cho tình yêu Thiên Chúa và là hoa trái của tình yêu này, mà tất cả các ơn gọi nảy sinh và lớn lên. Và chính khi kín múc ở nguồn mạch này trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25, 31-46). Để diễn tả mối liên hệ bất khả phân ly liên kết “hai tình yêu” này – tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân – vọt lên từ cùng nguồn mạch thần linh và hướng đến đó, Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã dùng đến ví dụ chồi non nẩy mầm: “Trong mảnh đất tâm hồn chúng ta, trước tiên [Thiên Chúa] đã trồng rễ tình yêu hướng về Ngài, và rồi, khi mùa đâm chồi đến, tình yêu huynh đệ đã được phát triển” (Moralium Libri, sive expositio in Librum B. Job, Lib. VII, cap. 24, 28; PL 75, 780D).

Hai lối diễn tả của cùng một tình yêu thần linh duy nhất này phải được sống với một cường độ đặc biệt và với tâm hồn trong sáng bởi những ai đã quyết định thực hiện một con đường biện phân ơn gọi hướng đến thừa tác vụ linh mục và đời sống thánh hiến ; chúng cấu thành yếu tố đặc trưng của nó. Quả thế, tình yêu đối với Thiên Chúa, mà các linh mục và tu sĩ trở thành những hình ảnh hữu hình của tình yêu đó – cho dầu
là những hình ảnh bất toàn – luôn là động cơ cho lời đáp trả lại ơn gọi đặc biệt dâng hiến cho Chúa qua việc phong chức linh mục hay việc khấn các lời khuyên Phúc Âm. Câu trả lời mạnh mẽ của thánh Phêrô đối với Thầy : « Thầy biết con yêu mến Thầy » (Ga 21, 15) là bí mật của một cuộc sống hiến dâng và được sống cách tròn đây, và qua đó ngập tràn niềm vui sâu xa.

Lối diễn cụ thể khác của tình yêu, tình yêu tha nhân, nhất là đối với những người nghèo túng và  đau khổ nhất, là động lực tốt đẹp nhất biến người linh mục và tu sĩ thành người kiến tạo sự hiệp thông giữa dân chúng và thành người gieo rắc hy vọng. Mối tương quan của người dâng hiến, đặc biệt của người linh mục, với cộng đoàn kitô hữu là sống còn và do đó trở thành một phần nền tảng của chân trời tình cảm của mình. Về vấn đề này, Cha Sở thánh thiện xứ Ars đã thích lặp đi lặp lại : « Linh mục không phải là linh mục cho mình. […] ngài là linh mục cho anh chị em » (Le Curé d’Ars. Sa pensée – Son cœur, Foi Vivante, 1966, p. 100).

Anh em giám mục thân mến, các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các giảng viên giáo lý, nhân viên mục vụ thân mến, và hết thảy anh chị em dấn thân trong lãnh vực giáo dục các thế hệ mới, tôi khuyến khích anh chị em hết sức ân cần chăm chú lắng nghe tất cả những người mà, ở trong các cộng đoàn giáo xứ, các hiệp hội và các phong trào, nhận thấy những dấu hiệu của một ơn gọi linh mục hay ơn gọi thánh hiến đặc biệt. Điều quan trọng trong Giáo Hội là tạo ra những điều kiện thuận lợi để nhiều lời « xin vâng » có thể biểu lộ, như biết bao lời đáp trả quảng đại trước tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.

Nhiệm vụ của việc mục vụ ơn gọi sẽ là mang lại những đường hướng chỉ đạo cho một hành trình có hiệu quả. Một yếu tố trọng tâm sẽ là tình yêu đối với Lời Chúa, bằng cách vun trồng một sự quen thuộc ngày càng gia tăng với Thánh Kinh, và một đời sống cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn chăm chú và kiên trì, để có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa giữa biết bao tiếng nói đang chiếm đầy đời thường. Nhưng trên hết, Thánh Thể phải là « trung tâm sống còn » của mọi hành trình ơn gọi : chính ở đó mà tình yêu của Thiên Chúa nối kết chúng ta trong hy lễ của Chúa Kitô, sự diễn tả hoàn hảo của tình yêu, chính ở đó mà chúng ta luôn học biết thêm nữa sống theo « mức độ cao » của tình yêu Thiên Chúa. Như thế, Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.

Tôi cầu chúc cho các Giáo Hội địa phương, nơi những thành phần khác nhau của mình, trở nên « những nơi chốn » cho sự biện phân chăm chú và cho sự chứng thực sâu xa các ơn gọi, mang lại cho giới trẻ một sự đồng hành thiêng liêng khôn ngoan và vững chắc. Bằng cách này, chính cộng đoàn kitô hữu trở thành một biểu lộ Tình Yêu của Thiên Chúa, săn sóc mọi ơn gọi. Một sự năng động như thế, đáp lại những đòi hỏi của lệnh truyền mới của Chúa Giêsu, có thể tìm thấy một sự thể hiện hùng hồn và đặc biệt nơi các gia đình kitô hữu, mà tình yêu của chúng là sự diễn tả tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến cho Giáo Hội của Ngài (x. Êph 5, 32). Trong các gia đình là « những cộng đồng sự sống và tình yêu » (Gaudium et spes, 48), các thế hệ mới có thể có một kinh nghiệm tuyệt vời về tình yêu dâng hiến này. Quả thật, chúng không chỉ là nơi ưu tiên cho việc huấn luyện nhân bản và Kitô giáo, nhưng chúng có thể được coi là « chủng viện đầu tiên và tuyệt hảo cho ơn gọi sống đời dâng hiến cho Nước Thiên Chúa » (Tông huấn Familiaris consortio, 53), bằng cách, ngay ở trong gia đình, giúp tái khám phá vẻ đẹp và tầm quan trọng của thiên chức linh mục và đời sống thánh hiến. Ước gì các vị mục tử và tất cả các tín hữu giáo dân luôn biết cộng tác để trong Giáo Hội « những tổ ấm và trường học hiệp thông » này ngày càng gia tăng, theo khuôn mẫu của Thánh Gia Thất ở Nadarét, phản ảnh hài hòa cuộc sống của Chúa Ba Ngôi trên trần gian.

Anh em giám mục đáng kính, cùng với những lời cầu chúc này, tôi hết lòng ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh em, cho các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và cho tất cả anh chị em giáo dân, cách riêng cho các bạn trẻ đang bắt đầu với một tâm hồn ngoan ngoãn lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa Chúa, sẵn sàng đón nhận tiếng gọi đó bằng một lòng gắn bó quảng đại và trung tín.

Vatican, ngày 18 tháng 10 năm 2011

Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

Tý Linh chuyển ngữ theo bản tiếng Pháp

Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của ĐTC.Biển Đức XVI

SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2012

« Chúng ta hãy quan tâm lẫn nhau để thôi thúc nhau sống đức ái và làm các việc lành » (Dt 10, 24)

Anh chị em thân mến,

Một lần nữa, Mùa Chay cho chúng ta cơ hội suy tư về những gì ở trung tâm của đời sống kitô hữu: đức ái. Quả thế, đó là một thời gian thuận lợi để làm mới lại hành trình đức tin của chúng ta, cá nhân cũng như cộng đoàn, với sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí tích. Đó là một hành trình được đánh dấu bằng việc cầu nguyện và chia sẻ, thinh lặng và chay tịnh, trong sự chờ đợi sống niềm vui phục sinh.

Năm nay, tôi muốn đề nghị một vài suy tư dưới ánh sáng của một bản văn Thánh Kinh vắn gọn trong Thư gởi tín hữu Do Thái: “Chúng ta hãy quan tâm lẫn nhau để thôi thúc nhau sống đức ái và làm các việc lành ” (10, 24). Câu này nằm trong đoạn văn trong đó tác giả sách thánh khích lệ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô như là vị Thượng Tế đã mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và sự đến gần Thiên Chúa. Hoa trái của việc chúng ta đón tiếp Chúa Kitô là một đời sống theo ba nhân đức đối thần: đó là chúng tiến đến gần Chúa “bằng một tâm hồn chân thành và trong đức tin sung mãn” (câu 22), giữ gìn “việc tuyên xưng đức cậy” cách vững vàng (câu 23) bằng cách liên lỉ chú tâm thực thi “ đức ái và các việc lành” (câu 24) với anh chị em chúng ta. Để nâng đỡ lối sống theo Tin Mừng này, nó cũng khẳng định, điều quan trọng là tham dự vào các cuộc gặp gỡ phụng vụ và kinh nguyện của cộng đoàn, đồng thời lưu tâm đến mục đích cánh chung: sự hiệp thông tròn đầy trong Thiên Chúa (câu 25). Tôi xin dừng lại ở câu 24 mà, trong vài từ, mang lại một giáo huấn quý báu và luôn luôn thời sự về ba khía cạnh của đời sống kitô hữu: quan tâm đến người khác, sự hỗ tương và sự thánh thiện bản thân.

1. “Chúng ta hãy quan tâm”: trách nhiệm đối với người anh em.

Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi “quan tâm”: động từ tiếng Hy-lạp được dùng là katanoein, có nghĩa là quan sát kỹ, chú tâm, nhìn cách ý thức, nhận thấy một thực tại. Chúng ta nhận thấy điều đó trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài “quan sát” chim trời, dù không lo lắng, vẫn là đối tượng của sự ân cần và quan tâm của Thiên Chúa Quan Phòng (x. Lc 12, 24), và “nhận thấy” cái xà trong mắt mình trước khi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em (x. Lc 6, 41). Chúng ta cũng nhận thấy yếu tố này trong một đoạn văn khác của chính Thư gởi tín hữu Do Thái, như là lời mời gọi “ngắm nhìn Chúa Giêsu” (3,1), là Tông đồ và là Thượng Tế của đức tin của chúng ta. Tiếp đến, động từ, mà mở ra lời khích lệ chúng ta, mời gọi nhìn đến người khác, trước tiên đến Chúa Giêsu, và quan tâm đến nhau, đừng tỏ ra xa lạ, dửng dưng với số phận của các anh chị em. Trái lại, thông thường, thái độ ngược lại lại chiếm ưu thế: sự dửng dưng, sự thờ ơ nảy sinh từ thói ích kỷ được che giấu đằng sau một vẻ bề ngoài tôn trọng đối với “phạm vi riêng tư”. Ngày nay, tiếng Chúa vang vọng mạnh mẽ, kêu gọi mỗi người chúng ta chăm lo đến người khác. Ngày nay cũng thế, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trở nên “những người gìn giữ” anh chị em chúng ta (x. Kn 4, 9), thiết lập những tương quan được làm nổi bật bằng một sự ân cần hỗ tương, bằng một sự quan tâm đến thiện ích của người khác và đến tất cả thiện ích của người ấy. Giới răn lớn về tình yêu tha nhân đòi hỏi và thúc giục ý thức có một trách nhiệm đối với người mà, cũng như tôi, là một thụ tạo và là một người con của Thiên Chúa: sự kiện là anh chị em với tư cách là người và, trong nhiều trường hợp, còn trong đức tin nữa, phải giúp cho chúng ta thấy nơi người khác một cái tôi khác (alter ego) đích thực, được Chúa yêu thương vô cùng. Nếu chúng ta vun trồng cái nhìn huynh đệ này, thì tình liên đới, sự công bằng cũng như sự thương xót và lòng trắc ẩn sẽ tự nhiên bật lên từ tâm hồn chúng ta. Vị Tôi Tớ Chúa là Đức Phaolô VI đã khẳng định rằng ngày nay thế giới đang đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ: “Thế giới bị bệnh hoạn. Chứng bệnh của nó ít hệ tại trong việc cằn cỗi tài nguyên hay trong sự vơ vét chúng bởi một số người, hơn là trong việc thiếu tình huynh đệ giữa con người và giữa các dân tộc” (Thông điệp Populorum progressio  [26/3/1967], số 66).

Việc quan tâm đến người khác bao hàm việc chúng ta mong muốn thiện ích cho người ấy, về mọi phương diện của người ấy: thể lý, luân lý và tinh thần. Nền văn hóa hiện đại dường như đã mất đi ý thức về sự thiện và sự dữ, đang khi mà cần thiết phải lặp đi lặp lại cách mạnh mẽ rằng sự thiện tồn tại và chiến thắng, bởi vì Thiên Chúa là “ Đấng nhân hậu, hay làm ơn làm phúc” (Tv 119, 68). Sự thiện là những gì khơi dậy, bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh đệ và sự hiệp thông. Như thế, trách nhiệm đối với tha nhân có nghĩa là muốn và làm điều thiện cho người khác, ước ao rằng người ấy cũng mở ra cho lô-gíc của sự thiện; quan tâm đến người anh em ý muốn nói mở đôi mắt ra trên sự túng thiếu của người ấy. Thánh Kinh đề phòng chống lại sự nguy hiểm có một tâm hồn bị chai cứng bởi một thứ “gây mê tinh thần” làm cho mù lòa trước những nỗi đau khổ của người khác. Thánh sử Luca tường thuật hai dụ ngôn của Chúa Giêsu trong đó chỉ ra hai ví dụ về hoàn cảnh có thể được tạo ra trong tâm hồn con người này. Trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, vị tư tế và thấy Lêvi “băng qua”, cách dửng dưng, trước người bị bọn cướp trấn lột và đánh cho nhừ tử (x. Lc 10, 30-32), và trong dụ ngôn người phú hộ xấu xa, con người có của cải thỏa thuê không nhận thấy thân phận của người nghèo Ladarô đang chết đói trước cửa nhà mình (x. Lc 16, 19). Trong hai trường hợp, chúng ta nhận thấy sự trái ngược với “ sự quan tâm”, với cái nhìn yêu thương và trắc ẩn. Điều gì ngăn cản cái nhìn nhân từ và yêu mến đối với người anh em? Đó thường là sự giàu có vật chất và sự đầy ứ, nhưng đó cũng là sự kiện đặt những lợi ích và bận tâm cá nhân của chúng ta lên trên hết. Không bao giờ chúng ta được tỏ ra bất lực “chứng tỏ lòng thương xót” đối với người đau khổ; không bao giờ tâm hồn chúng ta được để cho những lợi ích và những vấn đề riêng của chúng ta xâm chiếm đến độ điếc lác trước tiếng kêu của người nghèo khổ. Ngược lại, chính tâm hồn khiêm nhường và kinh nghiệm bản thân về sự đau khổ mới có thể tỏ ra là nguồn mạch thức tỉnh nội tâm về lòng trắc ẩn và sự tha cảm: “Người công chính quan tâm đến quyền lợi kẻ nghèo,
điều đó, ác nhân sao hiểu nổi
” (Cn 29, 7). Từ đó chúng ta hiểu được mối phúc của “những người sầu khổ” (Mt 5,5), tức là của những người có khả năng ra khỏi chính mình để động lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác. Gặp gỡ người khác và mở tâm hồn ra trước những gì người ấy cần là một cơ hội cho ơn cứu rỗi và hạnh phúc.

“Để tâm” đến người anh em cũng bao gồm sự quan tâm đối với thiện ích tinh thần của người ấy. Tôi muốn nhắc lại ở đây một khía cạnh của đời sống kitô hữu mà, đối với  tôi, dường như đã bị bỏ xó: việc sửa lỗi huynh đệ nhằm ơn cứu rỗi đời đời. Nói chung, ngày nay, ta rất nhạy cảm với đề tài tận tình săn sóc và bác ái đối với thiện ích thể lý và vật chất của người khác, nhưng có thể nói là ta không nói đến trách nhiệm tinh thần của chúng ta đối với anh chị em. Trong Giáo Hội sơ khai cũng như trong các cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin thì không như thế, ở đó người ta quan tâm không chỉ về sức khỏe thể lý của người anh em, nhưng còn linh hồn của người ấy nữa vì số phận tối hậu của người ấy. Trong Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy: “Hãy khiển trách người khôn ngoan, con sẽ được họ thương mến. Hãy giáo huấn người khôn, họ sẽ khôn hơn nữa. Hãy dạy bảo người công chính, họ sẽ hiểu biết thêm” (Cn 9, 8b-9). Chính Chúa Kitô truyền cho chúng ta khiển trách người anh em phạm tội (x. Mt 18, 15). Động từ được dùng để định nghĩa việc sửa lỗi huynh đệ – elenchein – là cũng chính động từ chỉ sứ mạng ngôn sứ tố giác của người kitô hữu đối với một thế hệ mãi mê sự dữ (x. Êph 5, 11). Trong số các việc thương xót tinh thần, truyền thống Giáo Hội đã kể đến việc “cảnh cáo các tội nhân”. Điều quan trọng là lấy lại chiều kích đức ái Kitô giáo này. Không được nín lặng trước sự dữ. Ở đây, tôi nghĩ đến thái độ của các kitô hữu, vì e sợ dư luận hay chỉ vì tiện ích bản thân, đang chạy theo não trạng chung thay vì giúp anh chị em đề phòng chống lại những cách thức suy nghĩ và hành động trái với chân lý, và không đi theo con đường sự thiện. Tuy nhiên, việc khiển trách của người kitô hữu không bao giờ được thực hiện trong tinh thần lên án hay đả kích. Nó luôn được đánh động bởi tình yêu và lòng thương xót và nó nảy sinh từ mối quan tâm đích thực đối với thiện ích của người anh em. Thánh Phaolô Tông đồ khẳng định: “Trong trường hợp có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ” (Gl 6, 1). Trong thế giới thấm nhiễm chủ nghĩa cá nhân của chúng ta, điều cần thiết là tái khám phá tầm quan trọng của việc sửa lỗi huynh đệ, để cùng nhau tiến bước hướng đến sự thánh thiện. Thậm chí Thánh Kinh đã nói “người công chính sa ngã bảy lần” (Cn 24, 16), và chúng ta hết thảy đều yếu đuối và bất toàn (x. 1 Ga 1, 8). Do đó, rất hữu ích việc giúp đỡ và để mình được giúp đỡ hầu có một cái nhìn chân thật về chính mình để cải thiện cuộc sống của mình và bước đi cách ngay thẳng hơn trên con đường của Chúa. Chúng ta luôn cần đến một cái nhìn yêu thương và sửa dạy, hiểu biết và thừa nhận, biện phân và tha thứ (x. Lc 22, 61), như Thiên Chúa đã và đang làm với mỗi người chúng ta.

2. “Lẫn nhau” : ân huệ của sự hỗ tương.

Việc “giữ gìn” người khác này tương phản với một não trạng, khi giảm thiểu cuộc sống chỉ còn thành chiều kích trần thế mà thôi, đã không xem xét nó trong một viễn ảnh cánh chung và chấp nhận bất kỳ chọn lựa luân lý nào nhân danh tự do cá nhân. Một xã hội như xã hội hiện nay có thể trở thành điếc lác trước những đau khổ thể lý cũng như trước những đòi hỏi tinh thần và luân lý của cuộc sống. Không được như thế trong cộng đoàn kitô hữu! Thánh Phaolô Tông đồ mời gọi tìm kiếm những gì “đem lại bình an và việc xây dựng lẫn nhau” (Rm 14, 19), bằng cách làm vui lòng “tha nhân vì lợi ích của họ và để xây dựng” (Rm 15, 2), không tìm kiếm tư lợi, “nhưng là lợi ích của nhiều người, để họ được cứu rỗi” (1 Cor 10, 33). Việc sửa lỗi nhau và việc khích lệ này, trong một tinh thần khiêm tốn và bác ái, phải thuộc về đời sống của cộng đoàn kitô hữu.

Các môn đệ của Chúa, được kết hiệp với Chúa Kitô nhờ Thánh Thể, sống trong một sự hiệp thông liên kết họ với nhau như những chi thể của một thân thể duy nhất. Điều đó muốn nói rằng người khác được hiệp nhất với tôi theo cách đặc biệt, đời sống của người ấy, phần rỗi của người ấy liên quan đến cuộc sống của tôi và phần rỗi của tôi. Ở đây, chúng ta đề cập đến một yếu tố rất sâu xa của sự hiệp thông: cuộc sống của chúng ta được gắn liền với cuộc sống của người khác, trong sự thiện của như  trong sự dữ, tội lỗi cũng như những việc bác ái cũng có một chiều kích xã hội. Trong Giáo Hội, thân thể huyền nhiệm của Chúa Kitô, sự hỗ tương này được chứng thực: cộng đoàn không ngừng sám hối và cầu xin ơn tha thứ các tội lỗi của con cái mình, nhưng nó cũng luôn vui mừng và hoan hỉ đối với những chứng tá nhân đức và bác ái diễn ra nơi cộng đoàn mình. Thánh Phaolô khẳng định:  “Các chi thể hãy lo lắng cho nhau” (1 Cor 12, 25) để chúng trở nên một thân thể duy nhất. Đức ái đối với anh chị em, mà việc bố thí – một thực hành đặc trưng của Mùa Chay cùng với việc cầu nguyện và chay tịnh – là một sự diễn tả của nó, được bén rễ trong việc cùng thuộc về (thân thể) này. Khi quan tâm cách cụ thể đến người nghèo khổ nhất, người kitô hữu có thể diễn tả sự tham dự của mình vào thân thể duy nhất là Giáo Hội. Quan tâm đến người khác trong sự hỗ tương, đó cũng là nhìn nhận thiện ích mà Chúa thực hiện nơi họ và cám ơn Ngài cùng với họ về những hồng ân kỳ diệu mà Thiên Chúa tốt lành và toàn năng tiếp tục thực hiện nơi các con cái của Ngài. Khi một kitô hữu nhận thấy nơi người khác hoạt động của Chúa Thánh Thần, thì người kitô hữu chỉ có thể vui mừng về điều đó và tôn vinh Cha trên trời (x. Mt 5, 16).

3. “Để thôi thúc nhau sống đức ái và làm các việc lành”: cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện.

Sự diễn tả này của Thư gởi tín hữu Do Thái (10, 24) thúc đẩy chúng ta suy nghĩ lời mời gọi phổ quát nên thánh, hành trình kiên trì trong đời sống thiêng liêng khao khát những đặc/đoàn sủng lớn lao nhất và một đức ái luôn cao hơn và phong nhiêu hơn (x. 1Cor 12, 31-13, 13). Sự quan tâm lẫn nhau có mục đích khuyến khích nhau hướng đến một tình yêu hữu hiệu luôn luôn lớn hơn, “như ánh bình minh, sự sáng chói của nó rực rỡ thêm cho đến hồi chính ngọ” (Cn 4, 18), trong sự chờ đợi sống ngày vô tận nơi Thiên Chúa. Thời gian được ban cho chúng ta trong suốt cuộc đời chúng ta là quý báu để khám phá và thực hiện những việc thiện, trong tình yêu Thiên Chúa. Bằng cách này, chính Giáo Hội lớn lên và được phát triển để đạt tới sự trưởng thành viên mãn của Chúa Kitô (x. Êph 4, 13). Việc chúng ta khích lệ thôi thúc nhau để đạt tới tình yêu tròn đầy và các việc lành sung mãn nằm trong viễn ảnh tăng trưởng năng động này.

Bất hạnh thay, vẫn còn cám dỗ lạnh nhạt, bóp ngạt Thánh Thần, khước từ “khai thác các tài năng” được ban cho chúng ta vì lợi ích của chúng ta và lợi ích của người khác (x. Mt 25, 25tt). Hết thảy chúng ta đều đã lãnh nhận những kho tàng phong phú tinh thần hay vật chất hữu ích cho việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, vì lợi ích của Giáo Hội và vì ơn cứu rỗi bản thân chúng ta (x. Lc 12, 21b; 1Tm 6, 18). Các bậc thầy tu đức nhắc nhớ rằng trong đời sống đức tin ai không tiến là lùi. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi luôn thời sự vươn tới “cấp độ cao của đời sống kitô hữu” (Gioan-Phaolô II, Tông thưNovo millennio ineunte [6/1/2001], số 31). Khi nhìn nhận và tuyên bố sự phúc kiến và sự thánh thiện của một số kitô hữu gương mẫu, sự khôn ngoan của Giáo Hội cũng có mục đích khơi lên lòng ao ước bắt chước các nhân đức của các ngài. Thánh Phaolô khích lệ: “Anh em hãy tranh đua lòng kính trọng nhau” (Rm 12, 10).

Đối diện với một thế giới đòi hỏi các kitô hữu một chứng tá mới mẻ về tình yêu và lòng trung tín với Chúa, tất cả mọi người đều cảm thấy sự cấp bách làm tất cả để tranh đua trong đức ái, trong việc phục vụ và trong những việc lành (x. Dt 6, 10). Lời nhắc nhở này đặc biệt mạnh mẽ trong suốt thời gian thánh chuẩn bị lễ Phục Sinh. Với lời cầu chúc anh chị em một Mùa Chay thánh thiện và phong nhiêu, tôi phó thác anh chị em cho sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria và tôi hết lòng ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.

Vatican, ngày 3 tháng 11 năm 2011

BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Mục tử của các mục tử.

Tý Linh chuyển ngữ theo bản tiếng Pháp